Bị mất việc làm là điều không mong muốn đối với người lao động, nhất là vào dịp cuối năm. Tuy nhiên, khi bị mất việc làm, người lao động vẫn sẽ được nhận các khoản tiền dưới đây.
Tiền trợ cấp thôi việc
Theo LS. Nguyễn Thị Hải Yến, Công ty luật TNHH Nguyễn Viết và Đội ngũ cộng sự, theo Điều 46 Bộ luật Lao động 2019, khi chấm dứt hợp đồng lao động, người sử dụng lao động có trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ đủ 12 tháng trở lên.
Có hai trường hợp không được nhận trợ cấp thôi việc là người lao động đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội 2014, và người lao động tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 5 ngày làm việc liên tục trở lên (theo quy định tại Điểm e, Khoản 1, Điều 36 Bộ luật Lao động năm 2019).
Tiền trợ cấp thôi việc được tính theo thời gian làm việc, cứ mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân của 6 tháng liền kề theo hợp đồng lao động trước khi người lao động thôi việc.
Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm.
Khi bị mất việc làm, người lao động vẫn sẽ được nhận nhiều khoản tiền. (Ảnh minh họa).
Tiền trợ cấp mất việc làm
LS. Yến cũng cho biết thêm, ngoài tiền trợ cấp thôi việc, người lao động cũng sẽ được hưởng tiền trợ cấp mất việc.
“Theo quy định tại khoản 11 Điều 34, Điều 47 Bộ luật Lao động 2019, người sử dụng lao động trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ đủ 12 tháng trở lên mà bị mất việc làm. Cứ mỗi năm làm việc trả 1 tháng tiền lương nhưng ít nhất bằng 2 tháng tiền lương”, luật sư cho hay.
Thời gian làm việc để tính trợ cấp mất việc làm là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động, trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm.
Tiền lương để tính trợ cấp mất việc làm là tiền lương bình quân của 6 tháng liền kề theo hợp đồng lao động trước khi người lao động mất việc làm.
Tiền trợ cấp thất nghiệp
Tiền trợ cấp thất nghiệp là khoản tiền do Quỹ Bảo hiểm xã hội chi trả. Theo LS Yến, để được hưởng khoản tiền này, người lao động không có việc làm phải đáp ứng đủ các điều kiện: đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên; chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp.
“Người lao động đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định tại Điều 49 Luật Việc làm 2013 sẽ được Cơ quan BHXH trả trợ cấp thất nghiệp theo quy định tại Điều 50 Luật Việc làm 2013. Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp 6 tháng liền kề, trước khi thất nghiệp.
Tuy nhiên, mức trợ cấp thất nghiệp tối đa không quá 5 lần mức lương cơ sở đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định. Hoặc không quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng, theo quy định của Bộ luật lao động đối với người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp theo chế độ tiền lương, do người sử dụng lao động quyết định tại thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động”, LS. Yến cho hay.
Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp. Cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp. Sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp, nhưng tối đa không quá 12 tháng.
Lương những ngày làm việc chưa được thanh toán, tiền phép năm
LS. Nguyễn Thị Hải Yến cũng cho hay, ngoài những khoản tiền nêu trên, người lao động cũng sẽ được hưởng lương của những ngày làm việc chưa được thành toán (quy định tại Điều 48 Bộ luật Lao động 2019) và tiền phép năm.
“Điều 113 Bộ luật Lao động 2019, quy định, người lao động làm việc đủ 12 tháng sẽ được nghỉ phép hằng năm, hưởng nguyên lương từ 12 – 16 ngày. Người lao động làm việc chưa đủ 12 tháng thì số ngày nghỉ hằng năm theo tỷ lệ tương ứng với số tháng làm việc.
Khoản 3 Điều 113 Bộ luật Lao động 2019 quy định: “Trường hợp do thôi việc, bị mất việc làm mà chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm thì được người sử dụng lao động thanh toán tiền lương cho những ngày chưa nghỉ”.
Theo Sức Khoẻ Đời Sống